Chẩn Đoán Chính Xác Về Bệnh Sốt Rét
Chẩn đoán chính xác về bệnh sốt rét là một việc quan trọng vì giúp phát hiện bệnh sớm, chọn lựa thuốc sốt rét hiệu quả và ngăn bệnh diễn tiến nặng dẫn đến tử vong. Các triệu chứng lâm sàng của bệnh sốt rét không đặc hiệu cho bệnh này mà còn có thể gặp ở nhiều bệnh khác. Hiện nay có rất nhiều kỹ thuật cận lâm sàng để chẩn đoán bệnh sốt rét từ đơn giản đến phức tạp. Một số có thể thực hiện ngay bên cạnh giường của bệnh nhân, còn một số phải đòi hỏi có trang thiết bị và con người được đào tạo chu đáo.
Phát hiện qua lam máu nhuộm Giemsa sốt rét
Máu ngoại biên được kéo lên trên lam kính (giọt dầy và phết mỏng), được nhuộm Giemsa ở nồng độ 3% - 5% và soi ở kính hiển vi quang học với độ phóng đại 700 – 1.000 lần. Giọt dầy dùng để phát hiện ký sinh trùng sốt rét, phết mỏng dùng để xác định chẩn đoán loài ký sinh trùng khi có nghi ngờ.
Phải soi một thể tích 0,25 µl máu trước khi kết luận (khoảng 100 vi trường vật kính đầu nếu trung bình ở một vi trường có 20 bạch cầu).
Xét nghiệm lam máu dưới kính hiển vi có nhiều lợi điểm
Kỹ thuật có độ nhạy cao, trong điều kiện thực tế thì ngưỡng phát hiện thường ở vào khoảng 100 ký sinh trùng/µl máu.
Trả lời kết quả bao gồm chủng loại ký sinh trùng, các thể của ký sinh trùng và mật độ của các thể. Mật độ ký sinh trùng được tính theo dấu cộng (1+ - 4+, trên giọt dày) hay thể hiện qua số lượng kst/µl máu.
Tương đối ít tốn kém.
Với kính hiển vi có thể làm thêm các xét nghiệm khác hay có thể phục vũ các chương trình y tế khác như phòng chống lao, giun sán, các bệnh lây truyền qua đường tình dục,…
Có thể lưu giữ tiêu bản máu lại để kiểm tra sau đó.
Tuy nhiên xét nghiệm với kính hiển vi có 3 nhược điểm chính
Đòi hỏi thời gian và công sức, thường sẽ không có kết quả ngay.
Cần kính hiển vi tốt, hóa chất và kỹ thuật chuẩn, kỹ thuật viên được đào tạo kỹ và làm việc có trách nhiệm.
Do kết quả không có sớm nên việc điều trị thường sẽ được tiến hành trước khi có kết quả xét nghiệm nếu gặp phải trường hợp nghi ngờ sốt rét nặng.
Dù vậy cho đến nay, phương pháp làm xét nghiệm lam máu vẫn được coi là “chuẩn vàng” để chẩn đoán ký sinh trùng sốt rét cho dù có những kỹ thuật khác, vì có thể thực hiện được ở mọi nơi và chi phí rất thấp.
Phương pháp này còn được sử dụng để đếm số lượng ký sinh trùng có trong máu theo dõi hiệu lực của thuốc sốt rét (đếm ký sinh trùng dựa vào số lượng bạch cầu có cùng trong một vi trường của giọt dày).
Hoặc có thể áp dụng phương pháp này để đánh giá được mật độ tính bằng tỷ lệ hồng cầu nhiễm ký sinh trùng bằng cách soi ở phết mỏng.
Các test dùng chẩn đoán sốt rét nhanh (RDT – Rapid Diagnostic Tests).
Đây là các test miễn dịch nhằm để phát hiện kháng nguyên của ký sinh trùng sốt rét. Lưu ý không sử dụng các test phát hiện kháng thể của ký sinh trùng để chẩn đoán bệnh sốt rét.
Hiện nay có các loại test chẩn đoán nhanh bệnh sốt rét
Test phát hiện kháng nguyên HRP – II (histidine rich protein II) được tiết ra bởi các thể vô tính và giao bào non của Plasmodium falciparum. Test này chỉ có thể phát hiện được Plasmodium falciparum.
Test phát hiện kháng nguyên men pLDH (parasite lactate dehydrogenase) của bốn loài ký sinh trùng. Test này chỉ có thể phân biệt được LDH của Plasmodium falciparum và LDH của ký sinh trùng không phải Plasmodium falciparum (nghĩa là của Plasmodium vivax, Plasmodium ovale và Plasmodium malariae). Trong thực tế thường hiểu đơn giản là dùng để phát hiện sốt rét do Plasmodium falciparum và sốt rét do Plasmodium vivax.
Test phát hiện được men aldolase của ký sinh trùng sốt rét.
Thường các test được trình bày ở dưới dạng một que thử, một cassette hay một tấm bìa cứng và đọc kết quả trong vòng 15 đến 20 phút (tùy theo nhà sản xuất). Test này có thể được thực hiện bởi bất kỳ nhân viên y tế nào khi đã được huấn luyện.
Lưu ý phải tuân thủ đúng thời điểm đọc kết quả và cách diễn giải kết quả theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Và cần lưu ý đến điều kiện bảo quản test (nhiệt độ môi trường chung quanh).
Phương pháp PCR (polymerase chain reaction)
Đây là một kỹ thuật sinh học phân tử, trong đó một đoạn gen của ký sinh trùng sẽ được nhân lên hàng triệu lần và sau đó được chạy điện di trên gel và nhuộm để phát hiện ký sinh sốt rét.
Đoạn gen của tiểu đơn vị 18S rPNA và CS (circumsporozoite) sẽ được sử dụng như là đích để phân biệt các loài Plasmodium. Lợi điểm chính của phương pháp PCR là khả năng có thể phát hiện ký sinh trùng ở những bệnh nhân có mật độ ký sinh trùng rất thấp (5 ký sinh trùng sốt rét), kỹ thuật PCR còn giúp phân biệt tái phát hay tái nhiễm của ký sinh trùng, hoặc ký sinh trùng kháng thuốc sốt rét,…
Phương pháp này chỉ thực hiện được ở một số viện nghiên cứu với trang thiết bị hiện đại và hóa chất đầy đủ, chưa áp dụng đến rộng rãi. Đối với ký sinh trùng sốt rét, kỹ thuật thường được áp dụng nhất là kỹ thuật nested PCR (CR lồng) với hai bước:
Bước một là xác định giống: PCR sẽ nhân bản gen đặc hiệu của giống Plasmodium. Sản phẩm khi thu được sẽ dùng cho bước hai.
Bước hai là xác định loài: PCR sẽ nhân bản gen đặc hiệu cho từng loài Plasmodium với các đôi mồi đặc hiệu cho từng loài.
Sản phẩm cuối cùng sẽ được phân tích bằng kỹ thuật điện di agarose gel 2% được nhuộm với ethidium bromide 25 µg/ml.
Phát hiện kháng thể chống ký sinh trùng sốt rét
Những kháng thể đặc hiệu chống lại ký sinh trùng sốt rét chỉ phản ánh việc bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét trong quá khứ. Do đó những test phát hiện được kháng thể chống ký sinh trùng sốt rét như những test RDT phát hiện kháng thể, IFAT (indireet immunofluorescence), IHA (indirect haemoagglutination), ELISA (enzyme-linked immunosorbent assay), RIA (radioimmunoassay)… chỉ được dùng trong việc điều tra dịch tễ học để đánh giá mức độ lưu hành của bệnh sốt rét trong cộng động, chứ không dùng để xác định tình trạng hiện có đang mắc bệnh sốt rét hay không.
Xét nghiệm huyết học
Số lượng hồng cầu, hemoglobin, hematocrit có thể giảm tùy thuộc theo mức độ thiếu máu.
Số lượng bạch cầu cho thấy bình thường hoặc giảm, không tăng bạch cầu ái toan.
Số lượng tiểu cầu thường giảm.
4 Biểu Hiện Của Bệnh Sán Chó Tuyệt Đối Không Nên Xem Thường
4 Biểu Hiện Của Bệnh Sán Chó Tuyệt Đối Không Nên Xem Thường. Là thể bệnh thường gặp nhất, thể này chủ yếu là gây ngứa rất khó chịu, ở người lớn thường...
Xem: 30308Cập nhật: 26.02.2023